LỤC VÂN TIÊN GẶP NẠN (NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU)
Đoạn trích: Lục Vân Tiên gặp nạn
(Trích "Truyện Lục Vân Tiên")
(Trích "Truyện Lục Vân Tiên")
- Nguyễn Đình Chiểu -
A. Kiến thức cơ bản
1. Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai của
truyện. Vân Tiên và Tiểu đồng đang bơ vơ nơi đất khách quê người thì gặp Trịnh
Hâm đi thi trở về. Vốn đã có lòng đố kị, ganh ghét tài năng của Lục Vân Tiên,
Trịnh Hâm lợi dụng cơ hội để hãm hại chàng. Hắn lừa tiểu đồng vào rừng trói lại
rồi giả bộ đưa Vân Tiên xuống thuyền, hứa sẽ dẫn về nhà. Đợi đến đêm khuya
vắng vẻ, hắn mới thực hiện hành động tội ác của mình.
2. Kết cấu đoạn
trích: 2 phần
- 8 câu đầu: hành động tội ác của Trịnh Hâm.
- 32 câu còn lại: Việc làm nhân đức cùng cuộc
sống trong sạch, nhân cách cao cả.
3. Chủ đề đoạn trích: sự đối lập giữa cái thiện và cái ấc, giữa
nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn, đồng thời thể hiện thái độ quý
trọng và niềm tin của tác giả đối với nhân dân lao động.
B. Phân tích
1. Phân tích tâm địa
độc ác của Trịnh Hâm qua hành động hãm hại bạn mình là Lục Vân Tiên.
* Hoàn
cảnh Vân Tiên: bơ vơ, tội nghiệp tiền hết, mắt đã bị mù, có chú tiểu đồng
theo hầu cũng bị Trịnh Hâm bắt trói trong rừng.
- Động cơ: quyết tìm hãm hại Lục Vân
Tiên là vì tính đố kị, ganh ghét tài năng, lo cho con đường tiến thân
của tương lai mình.
- Hành động độc ác, bất nhân, bất nghĩa.
+ Độc ác, bất nhân: vì hắn đang tâm hãm hại
một con người tội nghiệp, đang cơn hoạn nạn, không nơi nương tựa, không có gì
chống đỡ.
+ Bất nghĩa: vì Vân Tiên vốn là bạn của hắn,
từng “trà rượu” và làm thơ với nhau, lại đã có lời nhờ cậy.
- Hành động có toan tính, có âm mưu, kế
hoạch sắp đặt khá kỹ lưỡng, chặt chẽ:
+ Thời gian gây tội ác: Giữa đêm khuya.
+ Không gian: giữa khoảng trời nước mênh mông.
+ Đẩy Vân Tiên xuống, đến lúc biết không ai có
thể cứu hắn mới “giả tiếng kêu trời”, la lối um tùm lên rồi “lấy lời phui pha”
kể lể, bịa đặt, che lấp tội ác của mình. => Kẻ tội phạm gian ngoan xảo quyệt
đã phủi sạch tay, không mảy may cắn rứt lương tâm.
* Trịnh
Hâm hiện lên là một kẻ độc ác, bất nhân, bất nghĩa.
Nguyễn Đình Chiểu đã thành công ở cách sắp
xếp các tình tiết hợp lý, diễn biến hành động nhanh gọn, lời thơ vẫn giữ
được vẻ mộc mạc, giản dị vốn có của tác phẩm mà lột tả được tâm địa độc
ác của một kẻ bất nghĩa, bất nhân.
2. Phân tích hình
ảnh Ngư Ông trong đoạn trích“Lục Vân Tiên gặp nạn”.
Gợi ý trả lời:
a. Ông Ngư là một
người có những việc làm nhân đức và nhân cách vô cùng cao đẹp:
- Thấy người bị nạn, ông Ngư nhanh nhẹn “vớt
ngay lên bờ”, rồi:
“Hối con vẩy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”
- > Hành
động hết sức gấp gáp, khẩn trương, hết mình vì sự sống của nạn nhân đã gợi
tả được mối chân tình của gia đình ông Ngư đối với người bị nạn. Việc làm
này thật đẹp đẽ vì chưa biết nạn nhân là ai, chưa rõ nguyên cớ thế nào
nhưng thấy việc là làm, thấy người là cứu ân cần chu đáo. Đó là bản tính của
con người lương thiện, những người lao động bình thường.
- Sau khi cứu sống Vân Tiên, biết tình cảnh
khốn khổ của chàng, ông Ngư sẵn lòng cưu mang chàng, dù chỉ là chia
sẻ một cuộc sống đói nghèo “hẩm hút”,
tương rau, những chắc chắn đầm ấm tình người “hôm mai hẩm hút với già cho vui”. Tấm lòng của Ngư quả là bao dung,
nhân ái, hào hiệp.
- Ông cũng không hề tính toán đến cái ơn
cứu mạng và Vân Tiên chẳng thể báo đáp. “Dốc
lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”, “Lòng
lão chẳng mơ” là ông không ham muốn, ước mơ chút nào về tiền bạc, của cải,
ông chỉ “dốc lòng nhân nghĩa” là
thương người, cố hết sức mình cứu giúp con người, luôn tìm việc nghĩa, hướng về
điều thiện, thật hào hiệp, vô tư.
b. Cuộc sống đẹp của
ông Ngư:
- Ông Ngư đã sống một cuộc sống và suy nghĩ,
quan niệm về cách sống thật lương thiện, thật đẹp đẽ. Lời nói của ông Ngư
về cuộc sống của mình chính là những tiếng lòng của Nguyễn Đình Chiểu, những
khát vọng về cuộc sống tốt đẹp, về một lối sống đáng mơ đối với con người. Cảm
xúc chủ quan của nhà thơ là làm cho cuộc sống của người dân chài bình thường
trên sống nước có vẻ như được thi vị hoá, trở nên thơ mộng hơn, nhưng cốt lõi
vẫn là trung thực.
- Đoạn thơ cuối là một đoạn thơ hay của
tác phẩm: ý tứ phóng khoáng sâu xa, lời lẽ thanh thoát, uyển chuyển, hình
ảnh thơ đẹp, gợi cảm. Một khoảng thiên nhiên cao rộng, khoáng đạt mở
ra với những doi, vịnh, chích, đầm, bầu
trời, đất, gió trăng… Con người hoà
nhập vào trong cái thế giới thiên nhiên ấy, không chút cách biệt: hứng gió,
chơi trăng, tắm mưa, chải gió… niềm vui sống
cũng dường như đầy ắp cái cõi thế của con người ấy (tác giả dùng nhiều từ
chỉ trạng thái tâm hồn thanh thản, vui sống ấy: vui vầy, thong thả, nghêu ngao,
vui thầm, thung dung, vui say…). Có cảm giác như
chính tác giả đang nhập thân vào nhân vạt để nói lên khát vọng và niềm tin yêu
cuộc đời.
- Rũ bỏ mọi danh lợi, tìm về với sông nước
để “rửa ruột sạch trơn”, nay vào
vịnh, mai ra khơi, ngày hứng gió mát, đêm bè bạn với trăng thanh. Ngư Ông đã
chọn được một phong cách sống thật phóng khoáng, tự do. Tấm lòng ông
trong sạch, gia đình, nhà cửa, cả hình hài, thể xác lẫn tâm hồn như hoà nhập
với biển trời, sông nước. Cặp từ “hứng
gió”, “chơi trăng” cho ta thấy
hình ảnh một con người đang mơ mộng, hệt như một thi sĩ vậy. Mơ mộng nhưng
không mơ hồ, tuỳ tiện, mà rất chủ động, ung dung, ứng phó với mọi tình thế.
“Một mình thong thả làm ăn
Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm”
- Đây là một cuộc sống trong sạch, ngoài
vòng danh lợi ô trọc: một cuộc sống tự do, phóng khoáng giữa đất trời cao
rộng, hoà nhập, bầu bạn với thiên nhiên, thảnh thơi giữa sông nước, gió trăng
và vì thế cũng đầy ắp niềm vui.
- Cuộc sống ấy thật hạnh phúc, hoàn toàn xa
lạ với những toan tính nhỏ nhen, ích kỷ, mưu danh, trục lợi, sẵn sàng chà
đạp lên cả đạo đức, nhân nghĩ… Cuộc sống ấy thật đáng kính, đáng trọng!
* Đoạn thơ gửi gắm khát vọng của Nguyễn Đình Chiểu vào niềm tin
về cái thiện, vào con người lao động bình thường. Ông đã bộc lộ quan điểm
nhân dân rất tiến bộ. Từng trải cuộc đời, NĐC hiểu rất rõ rằng cái xấu, cái ác
thường lẩn khuất sau những mũ cao, áo dài của bọn người có địa vị cao sang (như
thái sư đương triều, Võ Công, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm…), nhưng vẫn còn những cái tốt đẹp, đáng kính trọng, đáng khao
khát, tồn tại bền vững nơi những con người lao động nghèo khổ mà nhân hậu, vị
tha, trọng nghĩa khinh tài (những ông Ngư, ông Tiều, chú tiểu đồng, bà lão dệt
vải trong rừng…). Nhà thơ
Xuân Diệu đã nói đúng: “Cái ưu ái đối với
người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm trong tâm hồn Đồ Chiểu”.
3. Quan niệm sống của nhân vật Lục Vân Tiên và nhân vật ông Ngư
trong truyện “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu có những nét giống nhau đó và
nêu rõ đó là quan niệm sống như thế nào?
Gợi ý trả
lời:
Quan niệm sống của nhân vật Lục Vân Tiên và nhân vật ông Ngư trong
truyện “Lục Vân Tiên” có những nét giống nhau. Đó là không ham muốn,
ước mơ về tiền bạc, của cải, chỉ dốc sức mình cứu giúp con người, luôn tìm việc
nghĩa, hướng về điều thiện một cách hào hiệp, vô tư.
Những câu thơ nói rõ quan niệm sống đó là:
“Vân Tiên nghe nói liền
cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn”
(Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt
Nga)
“Ngư rằng lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”.
(Lục Vân Tiên gặp nạn)
0 nhận xét: