Cảnh ngày xuân
Cảnh ngày xuân
(Trích "Truyện Kiều")
- Nguyễn Du-
Câu 1 : Chép thuộc "Cảnh ngày xuân":
Ngày
xuân con én đưa thoi,
Thiều
quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ
non xanh tận chân trời,
Cành
lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng
ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp
thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi
xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như
nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền
giấy bay.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra
về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề
thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh
bắc ngang.
Câu 2:
Vị trí: “Cảnh ngày xuân” là đoạn thơ tả cảnh
ngày mùa xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của chị em Kiều, nằm sau
đoạn tả tài sắc hai chị em Kiều, trước đoạn Kiều gặp nấm mộ Đạm Tiên và gặp Kim
Trọng. Đoạn trích là bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong
sáng, náo nhiệt.
Câu 3: Kết
cấu đoạn trích: theo trình tự thời gian của
cuộc du xuân.
+ Bốn câu đầu: Khung cảnh ngày xuân.
+ Tám câu tiếp: khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.
+ Sáu câu cuối: cảnh chị em Kiều du xuân trở vể.
Câu 4: Khái
quát giá trị nội dung và nghệ thuật.
Giá trị nội
dung của “Cảnh ngày xuân”: là bức tranh thiên
nhiên mùa xuân tươi đẹp, trong sáng và lễ hội mùa xuân tưng bừng, náo nhiệt.
Giá trị nghệ
thuật: sử dụng nhiều hình ảnh đắt giá, sáng
tạo; nhiều từ láy miêu tả cảnh vật và cũng là tâm trạng con người; bút pháp
miêu tả giàu chất tạo hình.
Câu 5: Giải
nghĩa từ ngữ:
- Thanh minh: tiết vào đầu
tháng ba, mùa xuân khí trời mát mẻ, trong trẻo, người ta đi tảo mộ, tức là đi
viếng và sửa sang lại phần mộ người thân.
- Đạp thanh: dẫm lên cỏ xanh.
- Tài tử giai nhân: trai
tài, gái sắc.
- áo quần như nêm: nói
người đi lại đông đúc, chật như nêm.
Câu 6: Thành
công trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên:
a. Bốn câu
thơ đầu: Tác giả miêu tả cảnh vật với vẻ đẹp riêng của mùa xuân.
- Hai câu đầu là hình ảnh khái
quát về một ngày xuân tươi đẹp với hình ảnh cánh én chao liệng trên bầu
trời thanh bình tràn ngập ánh xuân tươi tắn trong sáng. Đồng thời, nhà thơ cũng
ngỏ ý ngày xuân qua nhanh quá nhưng “con
én đưa thoi”, chín mươi ngày xuân mà nay “đã ngoài sáu mươi”.
- Hai câu thơ tiếp theo mới thực là bức tranh tuyệt mĩ: “Cỏ non xanh tận chân trời - Cành lê trắng
điểm một vài bông hoa”. Đây chỉ là chân dung của cảnh ngày xuân, chỉ giản
đơn có cỏ xanh, hoa trắng mà đủ cảnh, đủ màu, làm hiện lên cả một không
gian mùa xuân kháng đạt. ở đây, Nguyễn Du học tập hai câu thơ cổ Trung
Quốc: “Phương thảo liên thiên bích - Lê chi sổ điểm hoa”, nhưng khi
đưa vào bài thơ của mình, tác giả đã rất sáng tạo. Câu thơ Trung Quốc dùng hình
ảnh “cỏ thơm” (phương thảo) thiên về mùi vị thì Nguyễn Du thay bằng “cỏ xanh”
thiên về màu sắc. Đó là màu xanh nhạt pha với vàng chanh tươi tắn hợp với màu
lam trong snág của nền trời buổi chiều xuân làm thành gam nền cho bức tranh,
trên đó điểm xuyết những đốm trắng hoa lê. Bức tranh dung hoà những sắc độ lạnh
mà bên trong vẫn rạo rực sức sống tươi mới của mùa xuân. Chữ “trắng” đảo lên
trước tạo bất ngờ sự mới mẻ, tinh khôi, thanh khiết như kết tinh
những tinh hoa của trời đất. Chữ “điểm” gợi bàn tay người hoạ sĩ vẽ nên thơ nên
hoa, bàn tay tạo hoá tô điểm cho cảnh xuân tươi, làm bức tranh trở nên có
hồn, sống động.
- Hai câu thơ tả cảnh thiên
nhiên của Nguyễn Du quả là tuyệt bút! Ngòi bút của Nguyễn Du tài hoa, giàu
chất tạo hình ngôn ngữ biểu cảm, gợi tả. Tác giả đã rất thành công trong bút
pháp nghệ thuật kết hợp giữa tả và gợi. Qua đó, ta thấy tâm hồn con người
tươi vui, phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn, hồn
nhiên, nhạy cảm tha thiết với vẻ đẹp thiên nhiên.
b. Sáu câu thơ cuối: gợi tả
khung cảnh chị em Thuý Kiều du xuân trở về.
- Cảnh vẫn mang cái
thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp cầu bắc
ngang nhưng đã nhuốm màu tâm trạng.
- Bóng tịch dương đã chênh
chếch xế chiều: “Tà tà bóng ngả về đây”,
dòng nước uốn quanh. Nhưng đây không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật mà dường
như con người cũng chìm trong một cảm giác bâng khuâng khó tả. Cuộc du
ngoạn xuân cảnh đã tàn, lễ hội tưng bừng, náo nhiệt đã chấm dứt, tâm hồn con
người như cũng chuyển điệu cùng cảnh vật, bước chân người thơ thẩn. Cảnh
như nhạt dần, lặng dần, mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, không gian mang dáng
dấp nhỏ nhoi, bé hẹp, phảng phất buồn. Tâm trạng con người có cái bâng
khuâng xao xuyến về cuộc du xuân đã tàn, có cả linh cảm về việc gặp gỡ nấm mộ
Đạm Tiên và chàng thư sinh Kim Trọng “phong tư tài mạo tót vời”.
- Nghệ thuật: sử dụng nhiều từ láy như nao nao, tà tà, thanh thanh
không chỉ biểu đạt sức thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người, đặc
biệt hai chữ “nao nao” thoáng gợi nên một nét buồn khó hiểu. Hai chữ “thơ thẩn”
có sức gợi rất lớn, chị em Kiều ra về trong sự bần thần, nuối tiếc, lặng
buồn. “Dan tay” tưởng là vui
nhưng thực ra là chia sẻ cái buồn không nói hết. Cảm giá bâng khuâng xao
xuyến về một ngày vui xuân đã hé mở một vẻ đẹp tâm hồn thiếu nữ tha thiết
với niềm vui cuộc sống, nhạy cảm và sâu lắng. Chính các từ này đã nhuốm màu
tâm trạng lên cảnh vật.
Đoạn thơ còn hay bởi đã sử dụng bút pháp cổ điển: tả cảnh
gắn với tả tình, tả cảnh ngụ tình, tình và cảnh tương hợp.
Tóm lại:
- Đoạn 4 câu đầu và 6 câu
cuối bài “Cảnh ngày xuân”, Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa
xuân thật đẹp. Nhà thơ điểm vài chi tiết, tả cảnh để gợi là chính.
- Từ ngữ hình ảnh giàu chất
tạo hình.
- Thiên nhiên được miêu tả
trong những thời gian, thời điểm khác nhau.
Câu 7: Cảm
nhận về khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh (8 câu giữa)
- Nguyễn Du đã rất tài tình khi tách hai từ Lễ
hội ra làm đôi để gợi tả hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: Lễ tảo mộ, Hội đạp
thanh.
- Không khí lễ hội được gợi
tả từ một hệ thống từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm:
+ Đoạn thơ sử dụng nhiều tính từ (nô nức, gần xa, ngổn ngang) làm
rõ hơn tâm trạng người đi hội.
+ Nhiều danh từ ghép (yến anh, tài tử, giai nhân, chị em,
ngựa xe, áo quần) gợi tả sự đông vui tấp nập.
+ Và nhiều động từ (sắm sửa, dập dìu) gợi được sự rộn
ràng của ngày hội.
- Thông qua buổi du xuân của
chị em Thuý Kiều, tác giả khắc học hình ảnh một truyền thống văn hoá lễ hội
xa xưa. Cụm từ “nô nức yến anh” là một ẩn
dụ gợi lên hình ảnh từng đoàn nam thanh, nữ tú nô nức đi chơi xuân như
những đàn chim én, chim oanh bay ríu rít. Trong lễ hội mùa xuân náo nhiệt
nổi bật nghững nam thanh nữ tú, những “tài tử giai nhân” tay trong tay dạo
chơi, niềm vui lễ hội như bao trùm cả nhân gian. Những so sánh rất giản dị
“ngựa xe như nước, áo quần như nêm” gợi
tả sự đông vui.
- “Lễ là tảo mộ” - lễ thăm viếng, sửa sang, quét tước phần mộ người
thân; đốt vàng vó, sắc tiền giá để tưởng nhớ những người đã khuất. “Hội
là đạp thanh” - vui chơi chốn đồng quê, đạp lên những thảm cỏ xanh,
là một cuộc sống hiện tại và có thể tìm đến những sợi ta hồng của mai sau. “Lễ”
là hồi ức và tưởng niệm quá khứ theo truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “hội”
là khát khao và hoài vọng nhìn về phía trước của cuộc đời. Lễ và hội trong
tiết Thanh minh là một sự giao hoà độc đáo. Chứng tỏ nhà thơ rất yêu
quý, trân trọng vẻ đẹp và giá trị truyền thống văn hoá dân tộc.
0 nhận xét: