PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT NGUYỄN TUÂN QUA BÀI NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Đề bài: Phân tích đoạn trích "Người lái đò sông Đà" để
làm rõ những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ. Đối với ông, văn
chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật,
và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Đúng vậy! Với phong cách tự
do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân, Nguyễn Tuân đã tìm đến tùy
bút như một điều tất yếu. Sức hấp dẫn của tùy bút xét đến cùng tùy thuộc vào
cái tôi của người cầm bút có thực sự độc đáo, phong phú và tài hoa hay không.
Điều ấy nói rằng không phải ai cũng trở thành bậc thầy như Nguyễn Tuân. Chỉ cần
một văn phẩm "Người lái đò sông Đà" đã có thể tôn vinh Nguyễn Tuần là
một cây tùy bút độc đáo, tài hoa, uyên bác.
Những năm tháng đến với Tây Bắc là ông đi tìm "thứ vàng
mười đã được thử lửa", "chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc" để
hát ca về thiên nhiên đất nước, những con người đang ngày đêm thầm lặng trong
gian lao vất vả để dựng xây cuộc sống mới ở vùng cao heo hút này.
Tập tùy bút Sông Đà nói chung và Người lái đò sông Đà nói riêng
là bức tranh sinh động về thiên nhiên và cuộc sống của người nơi đây, mang đậm
cảm hứng lãng mạn trong sáng và thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật độc đáo
của Nguyễn Tuân.
Nét độc đáo, tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân trước hết ở tiếp
cận và khai thác đối tượng từ nhiều phương tiện thẩm mỹ, văn hóa, từ nguồn tri
thức đa dạng.
Chỉ một đoạn trích trong sách giáo khoa, nhưng ta thấy sự am
hiểu của Nguyễn Tuân về nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác cùng với văn
chương. Nguyễn Tuân luôn có ý thức vận dụng con mắt của các ngành văn hóa nghệ
thuật đó để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật ngôn từ. Ông
còn sáng tạo nên những hình ảnh tinh tế, tài hoa, độc đáo dựa trên sự quan sát
tỉ mỉ, trí tưởng tượng độc đáo, những liên tưởng, so sánh mới lạ được diễn đạt
bằng một vốn ngôn ngữ phong phú, có giá trị tạo hình và biểu cảm cao. Tất cả
những điều này được minh chứng rất rõ qua đoạn trích “Người lái đò sông Đà”
(đoạn trích thuộc sách giáo khoa).
Thoạt tiên là tri thức về âm nhạc với bản hợp âm náo loạn, kinh
khiếp của thác dữ: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc
lên như vừa rót dầu sôi vào”, “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi
lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi
nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng
tre nứa nổ lửa”… Những cách ví von mới lạ, độc đáo cùng ngôn ngữ giàu tính biểu
cảm, giàu sức gợi và nhịp điệu câu văn nhanh, gấp, đã tác động mạnh vào tâm trí
người đọc, liên tục đẩy âm thanh thác dữ đến hồi cao trào, quyết liệt nhất, để
rồi, khi tất cả đã qua đi, người ta có cảm giác đầu óc mình đã căng quá độ, bây
giờ thừ ra nghe “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. “Sông nước lại thanh
bình”. Nếu như vẽ một cái biểu đồ tần số âm thanh sông Đà thì ta đã có một
đường lên rất cao rồi đột ngột trở về với thanh ngang ghi âm của biểu đồ. Sau
đó, ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân lại giúp ta vẽ tiếp một đường đi xuống để
diễn tả cái “lặng tờ” của cảnh vật ven sông Đà ở hạ lưu. Trong trường liên
tưởng của mình, nhà văn như có thể xuyên thời gian, trở về quá khứ để cảm nhận:
“Hình như từ đời Lý đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà
thôi”, đến mức “thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê” để trở về với
thực tại đôi bờ. Nhịp điệu câu văn như cũng trải ra theo cái vắng lặng rất nên
thơ của dòng sông. Nguyễn Tuân, bằng tài nghệ và cá tính của mình đã lôi kéo
tâm thức người đọc miên man theo rồi bất ngờ đánh thức họ bằng tiếng cá đập
nước, âm thanh không phải dễ nghe thấy trong cuộc sống thường ngày. Chỉ có
trong không gian tĩnh lặng này, nó mới có thể “đuổi mất đàn hươu vụt biến” và
làm chúng ta choàng tỉnh. Tiếng động ấy đã khiến đường ghi âm nhích lên một
chút, tạo một điểm nhấn thanh nhẹ rồi lại trả con sông ở hạ lưu về với vẻ “lặng
tờ” vốn dĩ.
Song hành với âm thanh là hình ảnh. Bằng vốn hiểu biết phong phú
về hội họa và điêu khắc, cùng trí tưởng tượng độc đáo và óc quan sát sắc sảo
được diễn tả bằng vốn ngôn ngữ phong phú, điêu luyện, giàu giá trị tạo hình,
nhà văn đã giúp ta mường tượng về độ cao hun hút khôn cùng của “đá bờ sông dựng
vách thành” gợi lên nét hùng vĩ, hoang sơ, và cả sự ghê rợn nữa. Đặc biệt là
khi “chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu” thì sức nước hẳn phải ghê gớm, dữ
dằn lắm! Cách so sánh, liên tưởng mới mẻ, bất ngờ của Nguyễn Tuân quả khiến
người đọc cũng “thấy lạnh” như đang ngồi chung khoang đò qua quãng ấy với
Nguyễn Tuân vậy. Vài nét vẽ mà thật giàu sức gợi!
Nước đã dữ, đá thác còn khó ưa hơn. Sức tưởng tượng đã được
Nguyễn Tuân phát huy để tạo dáng hình cho từng khuôn mặt đá: đá to đá bé “Mặt
hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt
nước chỗ này”, lại có “những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt” hay “tiu nghỉu
cái mặt xanh lè”.
Khắc xong lại tô vẽ. Nhà văn lôi hộp màu ngôn từ ra, mong truyền
tải lại được một cách chân thực, sống động nhất vẻ đẹp con sông mà ông đã để
tâm quan sát rất kĩ lưỡng. Nếu cái dữ dằn của đá khiến nó trở nên xấu xí, khó
ưa thì cái dữ dằn của nước sông lại vô tình phát huy tác dụng của nắng khiến nó
mang vẻ đẹp sang trọng, lấp lánh huyền ảo của một “Mặt sông trắng xóa”, “lòa
sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”, lại
“loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”, hay
“sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”. Chẳng hiểu sao đọc những dòng
mô tả của Nguyễn Tuân, trong trí tôi lại liên tưởng đến chiếc váy lộng lẫy của
Nữ thần mặt trời trong sử thi “Đam Săn”. Vả chăng lúc này, dòng sông cũng đẹp
như thế!? Một vẻ đẹp khiến ta trầm trồ ngưỡng mộ. Rồi, nó lại khiến ta thương
thầm trong những sắc màu bình dị nhưng mặn mà, mỗi mùa mỗi khác: “Mùa xuân dòng
xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm,
sông Lô. Mùa thu nước sông Đà từ từ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.
Thảo nào Nguyễn Tuân không xót xa và phẫn nộ cho được khi “thực dân Pháp đã đè
ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ
thế mà phiết vào bản đồ lai chữ”. Con sông lại hớp hồn ta bởi cái vẻ “tuôn dài
như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung
nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đẹp
dịu dàng mà lại có vẻ như e ấp. Yêu quá đi thôi! Nhà văn hẳn cũng đã yêu tha
thiết sông Đà nên mới sáng tạo được hình ảnh đẹp với liên tưởng độc đáo, tài
hoa như thế. Lại còn tinh tế phát hiện những cảnh sắc tươi non, thơ mộng ven
sông Đà khi đã về đến hạ lưu nữa chứ: “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu
mùa”, “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ
gianh đẫm sương đêm”, “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc
rơi thoi”. Còn cái so sánh này thì thật táo bạo, bất ngờ: “Bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Đẹp quá phải không? Hấp dẫn quá phải không? Một bức tranh có hồn
được dựng bởi ngòi bút văn chương. Cái chúng ta đang chiêm ngưỡng không chỉ là
tác phẩm âm nhạc, hội họa, điêu khắc mà còn là một tác phẩm điện ảnh. Nhà văn
khi thì “Ngồi trong khoang đò” quay cảnh đá bờ sông, chẹt lòng sông, khi thì
“ngồi tàu bay” chiếu ống kính xuống để bao quát toàn cảnh. Còn với những cảnh
quá nguy hiểm, không thể quay trực tiếp được, nhà văn lại huy động đến trí
tưởng tượng để “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả
mình cả máy quay xuống đáy hút sông Đà” mà lia ngược ống kính lên để quay cận
cảnh “một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng
thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp cả máy cả người quay
phim cả người đang xem”. Ấy vậy mà đã truyền được cái hồn cốt của nó đến với
độc giả. Điều này thật chỉ có “nhà quay phim” tài ba như Nguyễn Tuân mới làm
nổi.
Ngoài ra, ông còn đưa vào tác phẩm của mình cả tri thức về văn
học với những câu thơ của Wladyslaw Broniewski, Nguyễn Quang Bích, Lí Bạch, Tản
Đà để góp phần khẳng định và tôn vinh vẻ đẹp sông Đà; đồng thời, khoác cho nó
chút sắc màu bí ẩn qua câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh.
Qua tất cả những nguồn tri thức đã huy động, có thể nói, nhà văn
đã đầu tư rất kĩ vào con sông Đà. Nhưng xét đến cùng, bao vốn liếng đổ vào nó
chẳng qua là để làm nền cho bức tượng đài về người lao động mới_ông lái đò_
hiện lên thật sừng sững, vững chãi. Thiên nhiên càng khắc nghiệt thì tác giả
càng khắc họa được sinh động sự từng trải, mưu mẹo và gan dạ của ông lái đò.
Lần này, tác giả đã sử dụng đến tri thức về khoa học quân sự và võ thuật để
miêu tả thạch trận và cuộc vượt thác đầy cam go của ông lái. Người đọc tưởng
thấy trước mắt một “trùng vi thạch trận” được bày bố công phu bởi những “chiến
binh đá” hung ác và lão luyện. Chúng biết dàn trận với “hàng tiền vệ” rồi
“tuyến giữa”, “tuyến hai”…; thông thạo những chiến thuật đánh trận như “mai
phục”, “dụ”, “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm”…; đánh
trận cũng rất xông xáo, dũng mãnh: “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”; lại còn ngạo
mạn “hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi”, thách thức cái thuyền có giỏi
thì tiến gần vào”… Đó là chưa kể chúng còn có sự hợp sức của nước thác cũng
hiếu chiến, hung dữ và ma mãnh không kém: “Mặt nước hò la vang dậy… ùa vào mà
bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình… liều mạng vào sát nách mà đá trải mà
thúc gối vào bụng và hông thuyền… đội cả thuyền lên… bám lấy thuyền như đô vật
túm thắt não bạt”… Thế này thì ông lái nguy mất! Người đọc không khỏi băn khoăn
lo lắng. Nhưng chứng kiến trọn vẹn cảnh vượt thác mới thấy ông không phải dễ bị
“bắt nạt”. Sức dẻo dai của cơ thể cùng cái đầu cứng cỏi, bình tĩnh, “nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải
nước hiểm trở” đã giúp ông lái “xung trận” như một võ sĩ “trí dũng song toàn”
lần lượt bẻ gãy các cuộc vây ráp, các đòn tấn công. Từng động tác của ông mới
nhanh gọn, dứt khoát làm sao: “tránh”, “đè sấn”, “lái miết một đường chéo”,
“phóng thẳng”… Ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, nhiều từ dùng
mới mẻ cùng những ví von bất ngờ mà vô cùng chính xác đã được sử dụng để miêu
tả thạch trận, đá thác, sóng thác, nước thác, bây giờ lại tiếp tục được vận
dụng để tả những vận động không kém phần dữ dội, quyết liệt của ông lái và con
thuyền: “nắm chặt lấy được cái bờm sóng… ông đò ghì cương lái”, “thuyền như một
mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”…
Bảo Nguyễn Tuân là nhà văn có cảm hứng đặc biệt đối với những gì
gây cảm giác mãnh liệt quả không sai. Cứ xem cuộc vượt thác cam go mới rồi và
một đối tượng mà ông miêu tả là con sông Đà thì biết. Nếu như cuộc vượt thác đã
kéo căng dây thần kinh của ta trong một sự tập trung cao độ thì con sông Đà lại
gây ấn tượng về sự “hung bạo và trữ tình” mà ở khía cạnh nào cũng lên đến trạng
thái đỉnh điểm: ở thượng lưu thì tột đỉnh “hung bạo” với sự hợp sức của “nước
xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, những muốn quật cho “tan tác” thuyền bè đi
ngang, là thách thức vô cùng to lớn đối với những con người sông nước nơi đây;
ấy thế mà, về đến hạ lưu nó lại tạo một phong cảnh tuyệt mĩ làm say đắm lòng
người. Ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào con sông vô
tri vô giác, để nó sống dậy, mang cả tính cách và tâm trạng, trở thành một
“nhân vật” cụ thể với những tính cách đối lập nhau gay gắt, khi được ví như
“thứ kẻ thù số một”, lúc lại như một “cố nhân”.
Thế rồi, đâu phải chỉ có con sông Đà là giành được niềm ưu ái
của tác giả. Trên nền cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân tiếp tục sử dụng những so sánh,
liên tưởng tài hoa, ngôn ngữ phong phú, điêu luyện, giàu giá trị tạo hình, cùng
sự vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác, đặc biệt là tri
thức về quân sự và võ thuật trong quan sát, miêu tả hiện thực để xây tạo bức
tượng đài về người lao động mới: ông lái đò, biết làm chủ thiên nhiên. Tuy là
một người dân bình thường, nhưng trong công việc “bình thường” của mình, ông
lái đã thực sự đạt đến độ điêu luyện, trở thành một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ
thuật vượt thác leo ghềnh. Vẫn khám phá con người ở phương diện tài hoa nghệ
sĩ, nhưng Nguyễn Tuân đã không chỉ nhìn thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những nhân
vật xuất chúng như Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” ông viết trước Cách mạng
tháng Tám 1945, mà còn phát hiện thấy phẩm chất đó ở những con người bình
thường nhất như ông lái đò trong “Người lái đò sông Đà” viết sau Cách mạng. Đây
là sự ổn định lẫn sự vận động của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân ở hai giai
đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám.
Một nét vận động khác của phong cách Nguyễn Tuân sau Cách mạng
trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” là ông không đối lập xưa với nay, cổ với
kim nữa, mà tìm thấy sự gắn bó giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều này đã
được thể hiện phần nào qua sự suy tưởng của nhà văn trên mạch tĩnh lặng của
cảnh vật trên sông Đà nơi hạ lưu. Nhà văn men theo bờ tĩnh lặng của hiện tại để
tìm về quá khứ nhận thấy sự gắn bó: “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng
sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”; rồi cũng lại từ cái tĩnh lặng của hiện
tại mà hướng đến tương lai với “tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên
đường sắt Phú Thọ_Yên Bái_Lai Châu”. Câu hỏi của “con hươu thơ ngộ”: “Hỡi ông
khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?” còn như
gián tiếp nói lên niềm tin của Nguyễn Tuân vào tương lai ấy, cái niềm tin mà
trước Cách mạng Nguyễn Tuân chưa bao giờ có được.
Người lái đò sông Đà” quả đã thể hiện khá đầy
đủ về phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân; đồng thời, qua đó, ta còn thấy được
tình yêu của ông đối với thiên nhiên và con người Tây Bắc, mà sâu hơn là lòng
yêu nước và tinh thần dân tộc. Tác phẩm đã đạt tới trình độ nghệ thuật bậc thầy
về thể loại tùy bút, ở đó, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ một cái tôi độc đáo, tài
hoa, uyên bác và phóng túng. Ông đã mang đến cho người đọc những trang văn thấm
đẫm một vẻ đẹp tinh khôi mơn mởn, căng tràn nhựa sống của thiên nhiên. Vẻ đẹp
ngôn ngữ trong trang văn như thôi miên người đọc vào mê cung của cảnh vật sông
Đà đẹp đến mê hồn và những con người lao động bình dị trên sông nước