PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT NGUYỄN TUÂN QUA BÀI NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ


Đề bài: Phân tích đoạn trích "Người lái đò sông Đà" để làm rõ những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ. Đối với ông, văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Đúng vậy! Với phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân, Nguyễn Tuân đã tìm đến tùy bút như một điều tất yếu. Sức hấp dẫn của tùy bút xét đến cùng tùy thuộc vào cái tôi của người cầm bút có thực sự độc đáo, phong phú và tài hoa hay không. Điều ấy nói rằng không phải ai cũng trở thành bậc thầy như Nguyễn Tuân. Chỉ cần một văn phẩm "Người lái đò sông Đà" đã có thể tôn vinh Nguyễn Tuần là một cây tùy bút độc đáo, tài hoa, uyên bác.

Những năm tháng đến với Tây Bắc là ông đi tìm "thứ vàng mười đã được thử lửa", "chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc" để hát ca về thiên nhiên đất nước, những con người đang ngày đêm thầm lặng trong gian lao vất vả để dựng xây cuộc sống mới ở vùng cao heo hút này.

Tập tùy bút Sông Đà nói chung và Người lái đò sông Đà nói riêng là bức tranh sinh động về thiên nhiên và cuộc sống của người nơi đây, mang đậm cảm hứng lãng mạn trong sáng và thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân.

Nét độc đáo, tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân trước hết ở tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều phương tiện thẩm mỹ, văn hóa, từ nguồn tri thức đa dạng.

Chỉ một đoạn trích trong sách giáo khoa, nhưng ta thấy sự am hiểu của Nguyễn Tuân về nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác cùng với văn chương. Nguyễn Tuân luôn có ý thức vận dụng con mắt của các ngành văn hóa nghệ thuật đó để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật ngôn từ. Ông còn sáng tạo nên những hình ảnh tinh tế, tài hoa, độc đáo dựa trên sự quan sát tỉ mỉ, trí tưởng tượng độc đáo, những liên tưởng, so sánh mới lạ được diễn đạt bằng một vốn ngôn ngữ phong phú, có giá trị tạo hình và biểu cảm cao. Tất cả những điều này được minh chứng rất rõ qua đoạn trích “Người lái đò sông Đà” (đoạn trích thuộc sách giáo khoa).

Thoạt tiên là tri thức về âm nhạc với bản hợp âm náo loạn, kinh khiếp của thác dữ: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”… Những cách ví von mới lạ, độc đáo cùng ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu sức gợi và nhịp điệu câu văn nhanh, gấp, đã tác động mạnh vào tâm trí người đọc, liên tục đẩy âm thanh thác dữ đến hồi cao trào, quyết liệt nhất, để rồi, khi tất cả đã qua đi, người ta có cảm giác đầu óc mình đã căng quá độ, bây giờ thừ ra nghe “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. “Sông nước lại thanh bình”. Nếu như vẽ một cái biểu đồ tần số âm thanh sông Đà thì ta đã có một đường lên rất cao rồi đột ngột trở về với thanh ngang ghi âm của biểu đồ. Sau đó, ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân lại giúp ta vẽ tiếp một đường đi xuống để diễn tả cái “lặng tờ” của cảnh vật ven sông Đà ở hạ lưu. Trong trường liên tưởng của mình, nhà văn như có thể xuyên thời gian, trở về quá khứ để cảm nhận: “Hình như từ đời Lý đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”, đến mức “thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê” để trở về với thực tại đôi bờ. Nhịp điệu câu văn như cũng trải ra theo cái vắng lặng rất nên thơ của dòng sông. Nguyễn Tuân, bằng tài nghệ và cá tính của mình đã lôi kéo tâm thức người đọc miên man theo rồi bất ngờ đánh thức họ bằng tiếng cá đập nước, âm thanh không phải dễ nghe thấy trong cuộc sống thường ngày. Chỉ có trong không gian tĩnh lặng này, nó mới có thể “đuổi mất đàn hươu vụt biến” và làm chúng ta choàng tỉnh. Tiếng động ấy đã khiến đường ghi âm nhích lên một chút, tạo một điểm nhấn thanh nhẹ rồi lại trả con sông ở hạ lưu về với vẻ “lặng tờ” vốn dĩ.

Song hành với âm thanh là hình ảnh. Bằng vốn hiểu biết phong phú về hội họa và điêu khắc, cùng trí tưởng tượng độc đáo và óc quan sát sắc sảo được diễn tả bằng vốn ngôn ngữ phong phú, điêu luyện, giàu giá trị tạo hình, nhà văn đã giúp ta mường tượng về độ cao hun hút khôn cùng của “đá bờ sông dựng vách thành” gợi lên nét hùng vĩ, hoang sơ, và cả sự ghê rợn nữa. Đặc biệt là khi “chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu” thì sức nước hẳn phải ghê gớm, dữ dằn lắm! Cách so sánh, liên tưởng mới mẻ, bất ngờ của Nguyễn Tuân quả khiến người đọc cũng “thấy lạnh” như đang ngồi chung khoang đò qua quãng ấy với Nguyễn Tuân vậy. Vài nét vẽ mà thật giàu sức gợi!

Nước đã dữ, đá thác còn khó ưa hơn. Sức tưởng tượng đã được Nguyễn Tuân phát huy để tạo dáng hình cho từng khuôn mặt đá: đá to đá bé “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”, lại có “những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt” hay “tiu nghỉu cái mặt xanh lè”.

Khắc xong lại tô vẽ. Nhà văn lôi hộp màu ngôn từ ra, mong truyền tải lại được một cách chân thực, sống động nhất vẻ đẹp con sông mà ông đã để tâm quan sát rất kĩ lưỡng. Nếu cái dữ dằn của đá khiến nó trở nên xấu xí, khó ưa thì cái dữ dằn của nước sông lại vô tình phát huy tác dụng của nắng khiến nó mang vẻ đẹp sang trọng, lấp lánh huyền ảo của một “Mặt sông trắng xóa”, “lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”, lại “loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”, hay “sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”. Chẳng hiểu sao đọc những dòng mô tả của Nguyễn Tuân, trong trí tôi lại liên tưởng đến chiếc váy lộng lẫy của Nữ thần mặt trời trong sử thi “Đam Săn”. Vả chăng lúc này, dòng sông cũng đẹp như thế!? Một vẻ đẹp khiến ta trầm trồ ngưỡng mộ. Rồi, nó lại khiến ta thương thầm trong những sắc màu bình dị nhưng mặn mà, mỗi mùa mỗi khác: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà từ từ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Thảo nào Nguyễn Tuân không xót xa và phẫn nộ cho được khi “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ”. Con sông lại hớp hồn ta bởi cái vẻ “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đẹp dịu dàng mà lại có vẻ như e ấp. Yêu quá đi thôi! Nhà văn hẳn cũng đã yêu tha thiết sông Đà nên mới sáng tạo được hình ảnh đẹp với liên tưởng độc đáo, tài hoa như thế. Lại còn tinh tế phát hiện những cảnh sắc tươi non, thơ mộng ven sông Đà khi đã về đến hạ lưu nữa chứ: “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”, “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”. Còn cái so sánh này thì thật táo bạo, bất ngờ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

Đẹp quá phải không? Hấp dẫn quá phải không? Một bức tranh có hồn được dựng bởi ngòi bút văn chương. Cái chúng ta đang chiêm ngưỡng không chỉ là tác phẩm âm nhạc, hội họa, điêu khắc mà còn là một tác phẩm điện ảnh. Nhà văn khi thì “Ngồi trong khoang đò” quay cảnh đá bờ sông, chẹt lòng sông, khi thì “ngồi tàu bay” chiếu ống kính xuống để bao quát toàn cảnh. Còn với những cảnh quá nguy hiểm, không thể quay trực tiếp được, nhà văn lại huy động đến trí tưởng tượng để “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy hút sông Đà” mà lia ngược ống kính lên để quay cận cảnh “một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp cả máy cả người quay phim cả người đang xem”. Ấy vậy mà đã truyền được cái hồn cốt của nó đến với độc giả. Điều này thật chỉ có “nhà quay phim” tài ba như Nguyễn Tuân mới làm nổi.

Ngoài ra, ông còn đưa vào tác phẩm của mình cả tri thức về văn học với những câu thơ của Wladyslaw Broniewski, Nguyễn Quang Bích, Lí Bạch, Tản Đà để góp phần khẳng định và tôn vinh vẻ đẹp sông Đà; đồng thời, khoác cho nó chút sắc màu bí ẩn qua câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh.

Qua tất cả những nguồn tri thức đã huy động, có thể nói, nhà văn đã đầu tư rất kĩ vào con sông Đà. Nhưng xét đến cùng, bao vốn liếng đổ vào nó chẳng qua là để làm nền cho bức tượng đài về người lao động mới_ông lái đò_ hiện lên thật sừng sững, vững chãi. Thiên nhiên càng khắc nghiệt thì tác giả càng khắc họa được sinh động sự từng trải, mưu mẹo và gan dạ của ông lái đò. Lần này, tác giả đã sử dụng đến tri thức về khoa học quân sự và võ thuật để miêu tả thạch trận và cuộc vượt thác đầy cam go của ông lái. Người đọc tưởng thấy trước mắt một “trùng vi thạch trận” được bày bố công phu bởi những “chiến binh đá” hung ác và lão luyện. Chúng biết dàn trận với “hàng tiền vệ” rồi “tuyến giữa”, “tuyến hai”…; thông thạo những chiến thuật đánh trận như “mai phục”, “dụ”, “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm”…; đánh trận cũng rất xông xáo, dũng mãnh: “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”; lại còn ngạo mạn “hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi”, thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”… Đó là chưa kể chúng còn có sự hợp sức của nước thác cũng hiếu chiến, hung dữ và ma mãnh không kém: “Mặt nước hò la vang dậy… ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình… liều mạng vào sát nách mà đá trải mà thúc gối vào bụng và hông thuyền… đội cả thuyền lên… bám lấy thuyền như đô vật túm thắt não bạt”… Thế này thì ông lái nguy mất! Người đọc không khỏi băn khoăn lo lắng. Nhưng chứng kiến trọn vẹn cảnh vượt thác mới thấy ông không phải dễ bị “bắt nạt”. Sức dẻo dai của cơ thể cùng cái đầu cứng cỏi, bình tĩnh, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở” đã giúp ông lái “xung trận” như một võ sĩ “trí dũng song toàn” lần lượt bẻ gãy các cuộc vây ráp, các đòn tấn công. Từng động tác của ông mới nhanh gọn, dứt khoát làm sao: “tránh”, “đè sấn”, “lái miết một đường chéo”, “phóng thẳng”… Ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, nhiều từ dùng mới mẻ cùng những ví von bất ngờ mà vô cùng chính xác đã được sử dụng để miêu tả thạch trận, đá thác, sóng thác, nước thác, bây giờ lại tiếp tục được vận dụng để tả những vận động không kém phần dữ dội, quyết liệt của ông lái và con thuyền: “nắm chặt lấy được cái bờm sóng… ông đò ghì cương lái”, “thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”…

Bảo Nguyễn Tuân là nhà văn có cảm hứng đặc biệt đối với những gì gây cảm giác mãnh liệt quả không sai. Cứ xem cuộc vượt thác cam go mới rồi và một đối tượng mà ông miêu tả là con sông Đà thì biết. Nếu như cuộc vượt thác đã kéo căng dây thần kinh của ta trong một sự tập trung cao độ thì con sông Đà lại gây ấn tượng về sự “hung bạo và trữ tình” mà ở khía cạnh nào cũng lên đến trạng thái đỉnh điểm: ở thượng lưu thì tột đỉnh “hung bạo” với sự hợp sức của “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, những muốn quật cho “tan tác” thuyền bè đi ngang, là thách thức vô cùng to lớn đối với những con người sông nước nơi đây; ấy thế mà, về đến hạ lưu nó lại tạo một phong cảnh tuyệt mĩ làm say đắm lòng người. Ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào con sông vô tri vô giác, để nó sống dậy, mang cả tính cách và tâm trạng, trở thành một “nhân vật” cụ thể với những tính cách đối lập nhau gay gắt, khi được ví như “thứ kẻ thù số một”, lúc lại như một “cố nhân”.

Thế rồi, đâu phải chỉ có con sông Đà là giành được niềm ưu ái của tác giả. Trên nền cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân tiếp tục sử dụng những so sánh, liên tưởng tài hoa, ngôn ngữ phong phú, điêu luyện, giàu giá trị tạo hình, cùng sự vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác, đặc biệt là tri thức về quân sự và võ thuật trong quan sát, miêu tả hiện thực để xây tạo bức tượng đài về người lao động mới: ông lái đò, biết làm chủ thiên nhiên. Tuy là một người dân bình thường, nhưng trong công việc “bình thường” của mình, ông lái đã thực sự đạt đến độ điêu luyện, trở thành một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh. Vẫn khám phá con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, nhưng Nguyễn Tuân đã không chỉ nhìn thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những nhân vật xuất chúng như Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” ông viết trước Cách mạng tháng Tám 1945, mà còn phát hiện thấy phẩm chất đó ở những con người bình thường nhất như ông lái đò trong “Người lái đò sông Đà” viết sau Cách mạng. Đây là sự ổn định lẫn sự vận động của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân ở hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám.

Một nét vận động khác của phong cách Nguyễn Tuân sau Cách mạng trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” là ông không đối lập xưa với nay, cổ với kim nữa, mà tìm thấy sự gắn bó giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều này đã được thể hiện phần nào qua sự suy tưởng của nhà văn trên mạch tĩnh lặng của cảnh vật trên sông Đà nơi hạ lưu. Nhà văn men theo bờ tĩnh lặng của hiện tại để tìm về quá khứ nhận thấy sự gắn bó: “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”; rồi cũng lại từ cái tĩnh lặng của hiện tại mà hướng đến tương lai với “tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ_Yên Bái_Lai Châu”. Câu hỏi của “con hươu thơ ngộ”: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?” còn như gián tiếp nói lên niềm tin của Nguyễn Tuân vào tương lai ấy, cái niềm tin mà trước Cách mạng Nguyễn Tuân chưa bao giờ có được.

Người lái đò sông Đà” quả đã thể hiện khá đầy đủ về phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân; đồng thời, qua đó, ta còn thấy được tình yêu của ông đối với thiên nhiên và con người Tây Bắc, mà sâu hơn là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Tác phẩm đã đạt tới trình độ nghệ thuật bậc thầy về thể loại tùy bút, ở đó, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ một cái tôi độc đáo, tài hoa, uyên bác và phóng túng. Ông đã mang đến cho người đọc những trang văn thấm đẫm một vẻ đẹp tinh khôi mơn mởn, căng tràn nhựa sống của thiên nhiên. Vẻ đẹp ngôn ngữ trong trang văn như thôi miên người đọc vào mê cung của cảnh vật sông Đà đẹp đến mê hồn và những con người lao động bình dị trên sông nước





Chiếc lược ngà
Nguyễn Quang Sáng

A. kiến thức cơ bản
I. Tác giả:
 -  Nguyễn Quang Sáng - sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
 -  Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau 1954, tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mỹ ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.
 -  Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong 2 cuộc kháng chiến cũng như sau hoà bình.
II. Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác: truyện ngắn "Chiếc lược ngà” được viết năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên.
2. Khái quát nội dung và nghệ thuật :
* Nội dung: thể hiện tình cha con cảm động và sâu nặng trong hoàn cảnh éo le, khắc nghiệt của chiến tranh.
* Nghệ thuật: tình huống bất ngờ, tự nhiên, hợp lý; thành công trong việc miêu tả tâm lý và xây dựng tính cách nhân vật, đặc biệt là nhân vật trẻ em (bé Thu).
3. Tóm tắt truyện:
 -  Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu - con ông - không nhận ra cha vì vết thẹo trên mặt làm ông không giống với người cha trong bức ảnh mà em biết. Em đối xử với ba như với người xa lạ. Cho đến lúc em nhận ra cha, tình cha con trỗi dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi.
 -  ở khu căn cứ, người cha ấy đã dồn hết tình cảm yêu thương và nỗi nhớ mong con vào một việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn, ông đã hy sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược ngà nhờ người bạn gửi về cho con gái của mình.
B. Phân tích tác phẩm
1. Tình huống truyện :
Truyện ngắn đã thể hiện tình cha con sâu sắc của hai cha con ông Sáu trong hai tình huống:
 -  Tình huống thứ nhất: hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản của truyện.
 -  Tình huống thứ hai: ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông Sáu đã hy sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái.
=> Nếu tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với cha thì tình huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc của người cha với đứa con.
II. Đề bài: Cảm nhận của em về tình cảm cha con sâu nặng thể hiện qua truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng.
Phần mở bài:
 -  Dẫn dắt vấn đề: Hoàn cảnh chiến tranh hoặc đề tài về tình cha con.
 -  Nội dung: Tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu.
2. Phần thân bài:
a. Tình cảm cha con sâu nặng giữa ông Sáu và bé Thu:
 -  Chủ đề không mới lạ nhưng thành công của Nguyễn Quang Sáng trong đoạn trích này chính là cách khai thác và biểu hiện tình cha con trong tình huống thật có lý: chiến tranh - xa cách:
+ 8 năm trời hai cha con bé Thu không được gặp nhau.
+ Chỉ nhận ra nhau qua tấm hình.
 -  Tình cảm cha con sâu nặng: khi phân tích chú ý qua những mốc sự việc.
+ Lúc còn ở rừng:
* Ông Sáu nhớ thương con vô cùng.
* Khao khát được gặp con, được sống trong tình yêu của con.
+ 3 ngày nghỉ phép ở nhà:
* Ông khao khát tình cảm của con bao nhiêu  - > con bé hoàn toàn lạnh lùng trước mọi tình cảm vồ vập của cha.
* Ông càng xích lại vần >< nó càng lùi xa.
* Ông càng chiều thương >< bí càng lẩn tránh.
* Ông càng mong được nghe tiếng ba >< nó càng cố tình lẩn tránh.
 - > Ngọn lửa nồng nàn của lòng cha cứ bị những đối xử xa lánh, ương ngạnh, của nó chối từ kể cả khi nó bị lâm vào thế bí “nồi cơm sôi sùng sục” kể cả những lời giảng giải của mẹ, nó cũng kiên quyết không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong đợi. Điều đó làm ông Sáu thực sự đau lòng, ông chỉ biết lắc đầu cam chịu bởi tình cảm không dễ gì gượng ép? Nhưng khi hiểu ra thì lại thấy rằng: chính thái độ ương ngạnh, ngang bướng đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm phụ tử. Đơn giản vì vết thẹo dài trên má người đang xưng là ba đây lại không giống với ảnh ba mình  - > Thắc mắc thầm kín trong lòng nó.
+ Bé Thu được ngoại giảng giải:
* Bé Thu vỡ lẽ ra người có vết thẹo đó chính là cha em.
 - > Tình yêu thương của cha nhân lên gấp bội.
* Nó cất tiếng gọi cha đúng lúc cha nó phải lên đường. Nó chạy lại ôm hôn cha nó. Những giọt nước mắt ân hận của nó chảy đầm đìa trên má, trên cằm khiến ông Sáu không nén được xúc động. Những giọt nước mặt hiếm hoi của ông, một người cha, một người lính lăn dài trên má ông.
+ Lại những ngày ông Sáu xa con:
* Ông thương nhớ con, ân hận vì mình đã đánh con.
* Tình yêu thương con dồn vào việc thể hiện lời hứa với con, làm cho con một chiếc lược ngà.
* Tự ông đi tìm ngà voi rồi tự tay ông ngồi cưa từng cái răng lược, thận trọng, khổ công như một người thợ bạc gò lưng, tỉ mỉ khắc lên đó một dòng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu - con của ba”. Thỉnh thoảng những lúc rảnh rỗi, ông lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho thêm bóng, thêm mượt
 - > Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một sản phẩm duy nhất trong đời. Cho nên cây lược ngà kết tinh trong nó tình phụ tử: mộc mạc mà đằm thắm, sâu sa, đơn sơ mà kỳ diệu.
+ Khi bị thương nặng, biết không thể sống được, ông đã dồn tất cả tàn lực của mình làm một việc: “đưa tay vào túi móc cây lược đưa lại cho ông Ba” như trao lại lời trăng trối cuối cùng, tuy không thành lời nhưng nói rõ ràng, thiêng liêng hơn cả một lời di chúc. Bởi đó là uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng đối với người bạn thân.
 - > Chiếc lược ngà  - biểu tượng cao quý của tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu.
3. Về nghệ thuật:
 -  Cốt truyện chặt chẽ, cách lựa chọn tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý.
 -  Lựa chọn ngôi kể, cảnh kể và ngôn ngữ lời thoại cho nhân vật
 - > Góp phần không chỉ làm cho câu chuyện đảm bảo tính khách quan, chân thực, tin cậy mà còn hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể và dẫn dắt nội dung câu chuyện theo dòng cảm xúc của mình.
III. Suy nghĩ của em về nhân vật ông Sáu:
1. Mở bài:
 -  Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
 -  Suy nghĩ của em về nhân vật ông Sáu : một người chiến sĩ, một người cha nhất mực thương yêu con.
2. Thân bài :
a) Lúc còn ở rừng:
 -  Ông nhớ thương con vô cùng.
 -  Khao khát được gặp con, được sống trong tình yêu của con.
b) Khi gặp con (ở bến xuồng)
 -  Ông đã không thể chờ xuồng cập bến “nhón chân nhảy thót lên bờ, xô chiếc xuồng tạt ra”. Rồi “bước vội vàng với những bước dài”, “kêu to tên con, vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ con”.
 -  Vét thẹo dài trên má phải anh lại đỏ ửng lên, giần giật. Giọng nói lập bập, run run: “ba đây con, ba đây con”.
 - > Tâm trạng xúc động mạnh mẽ, sau 7 - 8 năm xa nhà, tình cảm cha con bị nén lại trong lòng, nên ông Sáu không ghìm nổi.
 -  Ngược lại, bé Thu giật mình, ngơ ngác, hốt hoảng và vụt bỏ chạy  - > điều đó hoàn toàn bất ngờ với ông Sáu khiến “mặt ông sầm lại” và “hai tay buông xuống như bị gãy”.
 - > Thể hiện tâm trạng đau khổ tột cùng, ông sung sướng, náo nức, nôn nóng muốn được ôm con vào lòng, nhưng đứa con lại xa lánh, hoảng sợ khiến người cha bị hụt hẫng, ông đau đớn không hiểu nguyên nhân vì sao, ông vừa thất vọng, vừa bất lực.
c) Trong 3 ngày nghỉ phép:
 -  Ông chẳng đi đâu xa, chỉ tìm cách gần gũi để được nghe một tiếng gọi “ba” của con bé.
 -  Mọi cố gắng của ông từ việc “giả vờ không nghe” đến việc “dồn nó vào thế bí” (chắt nước cơm) nhưng không có kết quả.
 -  Trong bữa ăn, do nôn nóng, bực tức, không kịp suy nghĩ, ông đã đánh con bé  - > con bé bỏ sang nhà ngoại.
 -  Tình yêu thương con của ông Sáu đã không được bé Thu đón nhận, đáp lại, nó kiên quyết không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong mỏi - điều đó làm ông Sáu thực sự đau lòng, ông chỉ biết lắc đầu cam chịu, bởi tình cảm không dễ gì gượng ép.
d) Lại những ngày ông Sáu xa con:
 -  Ông thương con, ân hận vì mình đã đánh con.
 -  Ông dồn tình thương yêu ấy vào việc làm cho con một chiếc lược ngà - lời hứa với con trước lúc chia tay.
+ Tự động đi tìm ngàn voi rồi tự tay ông ông cưa từng chiếc răng lược thận trọng, khổ cùng như là một người thợ bạc.
+ Ông còn gò lưng tỉ mẩn khắc lên đó dòng chữ: “Yêu nhớ - tặng thu con của ba”.
 - > Chiếc lược ngà gỡ rối được phần nào tâm trọng của người cha, chiếc lược ấy là tình cảm, tấm lòng, là yêu thương mà ông gửi gắm - thỉnh thoảng những lúc rảnh rỗi ông lại lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho thêm bóng, thêm mượt.
 -  Trước khi hy sinh, ông Sáu móc cây lược ra trao vào tay người bạn chiến đấu. Chỉ khi nhận được lời hứa “mang về trao tận tay cho cháu”, người cha đó mới nhắm mắt được  - > Cử chỉ ấy cho ta hiểu tình cha con mãnh liệt và tha thiết của ông.
* Về nghệ thuật (xem lại đề A)
IV. Suy nghĩ của em về nhân vật bé Thu:
1. Mở bài: Tự làm
(ND: Bé Thu - một đứa bé bướng bỉnh, đáo để nhưng lại thương cha hết mực).
2. Thân bài
a) LĐ1: Bé Thu - một bé bướng bỉnh, cứng đầu và gan lì.
 -  Khi gặp ông Sáu ở bến xuồng, nghe tiếng gọi tên mình, Thu “giật mình tròn mắt nhìn”. Nó ngơ ngác, lạ lùng, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “má, má”.
 -  3 ngày nghỉ phép:
+ Thu xa lánh ông Sáu trong lúc ông tìm cách vỗ về, gần gũi. Thu nhất quyết không chịu gọi tiếng ba.
+ má doạ đánh, Thu bộc phải gọi ông Sáu vô ăn cơm, gọi chắt nước cơm nhưng lại nổi trổng.
+ Bác Ba nói mẫu nhưng Thu vẫn không gọi.
+ Bị dồn vào thế bí, nó nhăn nhó muốn khóc nhưng tự lấy rá chắt nước chứ không chịu gọi “ba”.
+ Thu đã hất tung cái trứng cá ra mâm, cơm văng tung toé - bị đòn, không khóc, chạy sang nhà bà ngoại, cố ý khua cho dây xuồng kêu thật to.
 - > Bé Thu thật là bướng bỉnh, cứng đầu và gan lì. Đến bác Ba cũng phải nghĩ “con bé đáo để thật”, còn ông Sáu thì không nén được: “Sao mày cứng đầu quá vậy?”.
 - > Chính thái độ ương ngạnh, ngang bướng đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cha con. Lý do nó không nhận ba thật đơn giản, trẻ con, bất ngờ mà hợp lý.
b) LĐ2: Bé Thu - Một cô bé có tình yêu thương cha tha thiết.
 -  Trước lúc ông Sáu lên đường
+ Tình cha con của ông đã trở lại vào thời khắc ngắn ngủi nhất, đem lại cho người đọc nỗi xúc động nghẹn ngào nhất.
+ Trong cái ngày trước khi ông Sáu lên đường vào chiến khu, con bé cùng ngủ với bà ngoại. Trong đêm ấy, bà đã giảng giải cho nó nghe, phân tích cho nó hiểu. Con bé đã biết được rằng ông Sáu chính là cha mình. Nó cũng hiểu vết sẹo ghê sợ trên mặt ông là vết thương của ông trong chiến đấu. Sau khi hiểu được nguồn gốc lai lịch vết sẹo trên mặt cha, con bé lăn lộn suốt một đêm không ngủ được. Có lẽ nó hối hận lắm vì đã từng đối xử không tốt với ông. Lúc này, không chỉ yêu cha, nó còn rất thương ba nữa.
+ Người đọc đã chứng kiến một cuộc chia tay cảm động sáng hôm sau, trước khi cha nó lên đường Thu cũng có mặt trong buổi đưa tiễn cha nhưng lại mang tâm trạng hoàn toàn khác trước: “Nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu”. Khi đối diện với ông Sáu,“đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Người đọc cảm nhận được đằng sau đôi mắt mênh mông, xôn xao ấy đang xáo động biết bao tình cảm.
+ Tiếng gọi ba vỡ oà từ sâu thẳm trong tâm hồn bé bỏng của nó. Sự khao khát tình cha con lâu nay bị kìm nén bỗng bật lên. Bắt đầu là tiếng thét “Baaa ba”, tiếng gọi thân thương, tiếng gọi ông Sáu chờ đợi suốt 9 năm ròng, cuối cùng ông cũng được nghe.
+ Thế rồi “nó vừa kêu vừa chạy xô tới dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”. Nó hôn khắp người ông Sáu, hôn cả vết sẹo dài trên má ông, cái vết sẹo trước kia nó ghê sợ và cảm thấy xấu xí vô cùng. Đến bây giờ, hiểu được vì sao cha có vết sẹo, Thu thương cha nó lắm. Hành động của em như muốn xoa dịu nỗi đau đã gây ra cho cha. Sau khi nghe ông Sáu nói: “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu thét lên: “Không!”, hai tay ôm chặt lấy cổ cha, 2 chân cấu chặt người nga. Em khóc vì thương cha, vì ân hận đã không phải với cha, vì không biết đến bao giờ mới được gặp lại cha. Lúc này tất cả hành động của Thu đều gấp gáp dồn dập, trái hẳn lúc dầu.
+ Trong tâm hồn cô bé, tình yêu với cha đã có sự thay đổi. Ngoài tình yêu còn có tình thương rồi cao hơn cả là niềm tự hào vô bờ bến, niềm kiêu hãnh vô cùng vì người cha chiến sĩ, người cha hy sinh tuổi thanh xuân, cống hiến cả cuộc đời cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Giờ đây người cha ấy lại tiếp tục đi theo con đường vinh quang mà cả dân tộc ta đang đi.
3. Kết bài: Tác giả quả rất am hiểu tâm lý trẻ em nên đã diễn tả sinh động tình cảm của bé Thu trong cuộc chia tay cha con đầy cảm động. Ông còn rất yêu thương trẻ thơ.
V. Nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện:
1. Truyện ngắn Chiếc lược ngà là biểu tượng cho đặc điểm trần thuật truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Điều tạo nên sức hấp dẫn của câu chuyện là tác giả đã xây dựng được một tình huống hết sức chặt chẽ, hấp dẫn xoay quanh những tình huống bất ngờ nhưng tự nhiên và hợp lý. Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Quang Sáng thoải mái, tự nhiên với giọng điệu thân mật, dân dã.
2. Tác giả đã lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Đồng thời tác giả thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, đặc biệt là tâm lý của nhân vật trẻ em rất tinh tế. Điều đó thể hiện sự nhạy cảm, tấm lòng yêu thương trân trọng của nhà văn đối với con người và tình người.
3. Ngôi kể: Tác giả đã kể chuyện từ nhân vật “tôi” (bác Ba) - người bạn thân chiến đấu của ông Sáu, một người chứng kiến toàn bộ câu chuyện. Việc sử dụng ngôi kể này tạo được giọng điệu kể chuyện thủ thỉ tâm tình, gợi cảm giác chân thực, gần gũi với người đọc. Khi cần có thể bày tỏ trực tiếp cảm xúc, thái độ đối với sự kiện và nhân vật. Câu chuyện trở nên đáng tin cậy. Người kể hoàn toàn điều khiển nhịp kể.
* Một số câu hỏi xoay quanh tác phẩm.
Câu 1: Sau khi đọc xong truyện ngắn "chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng, em có những cảm xúc và suy nghĩ gì về nhân vật bé Thu và tình cảm cha con trong chiến tranh ?
Gợi ý:
a. Bé Thu là một đứa trẻ hồn nhiên chân thật trong tình cảm, mãnh liệt trong tình yêu thương cha (Tuy có phần ương ngạnh, bướng bỉnh).
 -  Sự ương ngạnh của bé Thu thể hiện ở việc dứt khoát không chịu nhận ông Sáu là cha. Đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại tỏ ra ngờ vực, lảng tránh. Ông Sáu càng muốn gần con thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhật, xa cách.
+ Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn ngơ ngác lạ lùng khi ông Sáu đến gặp lặp đi lặp lại: ba đây con! Thì nó lạ quá, mặt bỗng tái đi, chớp chớp mắt nhìn người đàn ông ??? (vẫn im lặng) như muốn hỏi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: Má! Má!
+ Trong hai ngày đêm tiếp theo, mặc kệ những lời nói, cử chỉ âu yếm, làm thân, vỗ về tình cảm của anh Sáu, bé Thu một thực thờ ơ, lạnh lùng đến mức bướng bỉnh, ngang ngạnh bất cần Ông càng chiều thương, nó càng lảng ra. Ông càng khao khát được nghe tiếng “ba” từ lòng con, nó càng cố tình cự nự. (D/C: lúc cơm sôi một mình nó bé, không thể tự nhấc nổi để chắt nước, nó sẽ phải cầu cứu người lớn giúp đỡ, người đọc cứ ngỡ rằng nó sẽ phải chịu thua, không thể chiến tranh lạnh được nữa - nó buộc phải gọi ba Nhưng không. Nó vẫn không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó từng mong mỏi. Nó vẫn hành động theo sự bướng bỉnh, bất cần - tự mình làm lấy công việc nguy hiểm và quá sức. Nghĩa là nó không chịu nhượng bộ)
+ Khi bị ông Sáu tức giận đánh một cái thì nó bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua dây cột xuống kêu rộn ràng thật to.
 -  Sự ương ngạnh của bé Thu hoàn toàn không đáng trách mà còn có phần đáng yêu. Đó là phản ứng tâm lý hoàn toàn tự nhiên của một đứa trẻ có cả tính mạnh mẽ. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé nhỏ để có thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thườngm, nên nó không tin ông Sáu là ba chỉ vì trên mặt ông Sáu có thêm vết sẹo, khác với hình ba mà nó đã được biết. Cô bé không tin thậm chí còn ngờ vực. Cô bé không dễ tin người khác cả bạn của cha, cả mẹ xác nhận là cha nhưng không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng mình thì cô bé chưa chịu thông. Phản ứng tâm lý của em là hoàn toàn tự nhiên, nó còn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm của em sâu sắc, chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba. Chính cái thái độ quyết liệt ngang ngạnh đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm người con dành cho cha - người trong tấm hình chụp chung với má em, một tình yêu chân thực, sâu sắc và mãnh liệt.
 -  Trong buổi sáng cuối cùng, trước giờ phút ông Sáu phải đi xa thì thái độ và hành động của bé Thu đã đột ngột, thay đổi hoàn toàn. Nó đã dành cho ba một tình cảm thật mãnh liệt. Nỗi nhớ mong với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra thật mạnh mẽ và hối hả, cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối hận. Giờ đây người cha sắp phải đi xa, xe mẹ, xa con và tiếp tục cuộc đời người lính gian khổ. Lần đầu tiên, Thu cất tiếng gọi “Ba” và tiếng kêu như tiênég “xé”, không còn là tiếng kêu biểu lộ sợ hãi mà là tiếng nói của tình yêu thương ruột thịt. Rồi nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thốt lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó, nó hôn lên ba nó cùng khắp, hôn cả vết thẹo dài trên má như để nhận lỗi. Hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cải hai chân rồi cấu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run. Thì ra trong đêm bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết thẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu đã được giải toả và ở Thu nảy sinh một trạng thái như là sự ân hận, hối tiếc: “nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Giờ đây cô mới vỡ lẽ ra người cha của cô thật đẹp và thật anh hùng. Cô bé không chỉ yêu cha, thương cha mà còn tự hào về cha.
 -  Qua biểu hiện tâm lý và thái độ, tình cảm, hành động của bé Thu, ta thấy đó là cô bé có tình cảm thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. ở Thu còn có nét cá tính là sự cứng cỏi đến mức tưởng như ương ngạnh, nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ.
Hình ảnh bé Thu và tình yêu cha sâu sắc của Thu đã gây xúc động mạnh trong lòng người đọc, để lại những ấn tượng sâu sắc.
b. Về tình cảm cha con trong chiến tranh:
 -  Tình cảm cha con trong chiến tranh có những xa cách, trắc trở nhưng rất thiêng liêng và sâu sắc.
 -  Người đọc thực sự xúc động về tình cảm của họ nhưng không khỏi có những trăn trở suy ngẫm.
Câu 2: Phân tích tình cảm cha con sâu nặng ở ông Sáu:
Ông Sáu là một người cha hy sinh cả cuộc đời để gìn giữ tình cha con bất diệt.
a. Sau tám năm xa nhà đi kháng chiến, khi bé Thu lên tám tuổi ông Sáu mới có dịp về phép thăm nhà, gặp mặt đứa con gái đầu lòng mà ông vô cùng thương nhớ. Khi cất tiếng gọi con cùng với điệu bộ “vừa bước, vừa khom người đưa tay chờ đón con”, có lẽ ông rất vui và xúc động, hạnh phúc, tin rằng đứa con sẽ đến với mình. Nhưng bé Thu đã từ chối, chạy và kêu thét lên gọi má. Ông Sáu vô cùng buồn bã, thất vọng, đau đớn.
 -  Trong hai ngày phép ngắn ngủi, ông Sáu không đi đâu chỉ quanh quẩn ở nhà với con, chăm sóc con nhưng bé Thu không nhận cha khiến ông vô cùng buồn, nhưng ông sẵn lòng tha thứ cho con. Tình yêu thương của người cha dành cho con trở nên bất lực khi ông Sáu đánh con bé một cái vào mông vì nó đã hất miếng trứng cá mà ông gắp ra khỏi bát cơm làm cơm văng tung toé.
 -  Cho đến lúc chia tay, ông nhìn con trìu mến lẫn buồn rầu “đôi mắt của người cha giàu tình thương yêu, độ lượng, có phần thất vọng, sợ con không đón nhận tình cảm của mình. Trước cử chỉ của bé Thu, “anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con”. Đó là giọt nước mắt sung sướng, hạnh phúc của một người cha cảm nhận được tình ruột thịt từ con mình.
b. Tình cảm của ông Sáu với con đã được thể hiện tập trung và sâu sắc ở phần sau của truyện, khi ông Sáu ở trong rừng, tại khu căn cứ.
 -  Trước hết là nỗi nhớ thương xen lẫn sự day dứt, ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày vì ông đã đánh con khi nóng giận. Ông Sáu đúng là một người cha hiền lành, nhân hậu, biết nâng niu tình cảm cha con. Rồi lời dặn của đứa con: “Ba về, ba mua cho con một cây lược ngà nghe ba!” đã thúc đẩy ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà dành cho con. Chứng tỏ ông rất chiều con và luôn giữ lời hứa với con. => Đó là biểu hiện tình cảm trong sáng và sâu nặng của người cha.
 -  Kiếm được khúc ngà, anh vui sướng như đứa trẻ được quà, rồi để hết tâm trí, công sức vào việc làm cây lược, cưa răng, chuốt bóng, khắc chữ tỉ mỉ, cần mẫn, công phu. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo một tác phẩm duy nhất trong cuộc đời. Cho nên nó không chỉ là chiếc lược xinh xắn và quý giá mà đó là chiếc lược kết tụ tất cả tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, sâu xa, đơn sơ mà kỳ diệu làm sao! Chiếc lược ngà ??? thiêng liêng đã làm dịu nỗi ân hận và ánh lên niềm hy vọng khắc khoải sẽ có ngày anh Sáu được gặp lại con, trao tận tay nó món quà kỷ niệm này.
 -  Nhưng tình cảm thật đáng thương, anh không kịp ddwa cây lược ngà đến tận tay cho con, người cha ấy đã hy sinh trong một trận càn. Trước khi vĩnh biệt con, ông Sáu vẫn nhớ chiếc lược, đã chuyển nó cho người bạn như một cử chỉ chuyển giao sự sống, một sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân: ước nguyện của tình phụ tử. Điều đó đúng như ông Ba nói: “chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Đó là điều trăng trối không lời, nó rõ ràng và thiêng liêng hơn cả một lời di chúc.
=> Ông Sáu quả là một người cha chịu nhiều thiệt thòi nhưng vô cùng độ lượng và tận tuỵ vì tình yêu thương con. Một người cha để bé Thu sốt đời yêu quý và tự hào.


Lặng lẽ Sa Pa
Nguyễn Thành Long

A. Kiến thức cơ bản
I. Tác giả:
Nguyễn Thành Long (1925 - 1991) quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, viết văn từ thời kháng chiến chống Pháp, là cây bút chuyên về truyện ngắn và ký.
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn là kết quả chuyến đi lên Lào Cai hè 1970 của tác giả. Truyện từ tập “Giữa trong xanh” in năm 1972.
2. Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật:
* Nội dung: Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” khắc hoạ thành công hình ảnh những người lao động bình thường, mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng ở một mình trên đỉnh núi cao. Qua đó truyện khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa những công việc thầm lặng.
* Nghệ thuật: Truyện đã xây dựng được một tình huống truyện hợp lý, cách kể truyện tự nhiên, có sự kết hợp giữa tự sự, trữ tình với bình luận.
3. Tóm tắt truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long
Xe tới chân đỉnh Yên Sơn, bác lái xe dừng lại, giới thiệu với ông hoạ sĩ già và cô kỹ sư trẻ một anh thanh niên làm công tác khí tượng và vật lý địa cầu sống một mình trên núi. Trong cuộc gặp gỡ 30 phút ngắn ngủi, anh thanh niên kể về công việc của mình, công việc đơn giản nhưng gian khổ và cô đơn. Anh đã bộc lộ những suy nghĩ đúng đắn về công việc và cuộc đời. Khi ong hoạ sĩ định vẽ anh, anh đã giới thiệu những người khác mà anh cho là đáng vẽ hơn như ông  kỹ sư vườn rau, nhà nghiên cứu sét. Những điều khám phá được ở anh thanh niên làm cho người khách vô cùng xúc động. Khi họ trở về, anh còn tặng cô gái một bó hoa và tặng bác già một làn trứng ăn đường.
B. Phân tích tác phẩm
1. Nhận xét về cốt truyện và tình huống cơ bản của truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa".
 -  Một trong những mấu chốt của nghệ thuật xây dựng truyện ngắn là xây dựng tình huống truyện.
 -  Tình huống cơ bản của truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" chính là cuộc gặp gỡ tình cờ của anh thanh niên làm việc một mình ở trạm khí tượng với bác lái xe và hai hành khách trên chuyến xe ấy - ông hoạ sĩ và cô kỹ sư lên thăm trong chốt lát nơi ở và nơi làm việc của anh thanh niên.
 -  Tình huống gặp gỡ này là cơ hội thuận tiện để tác giả khắc hoạ "bức chân dung" nhân vật chính một cách tự nhiên và tập trung, qua sự quan sát của các nhân vật khác và qua chính lời lẽ, hành động của anh. Đồng thời, qua "bức chân dung" (cả cuộc sống và những suy nghĩ) của người thanh niên, qua sự cảm nhận của các nhân vật khác (chủ yếu là ông hoạ sĩ) về anh và những người như anh, tác giả đã làm nổi bật được chủ đề của tác phẩm: "Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kỹ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước".
II. Tác phẩm này theo lời tác giả, "là một bức chân dung". Đó là bức chân dung của ai, hiện ra trong cái nhìn và suy nghĩ của những nhân vật nào?
 -  Đó là bức chân dung của người thanh niên làm công tác khí tượng, ở một mình tại trạm khí tượng trên núi cao, giữa cái lặng lẽ của Sa Pa.
 -  Tác giả gọi truyện của mình "là một bức chân dung" vì:
+ Thứ nhất, vì tác giả chỉ để cho nhân vật xuất hiện trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi khoảng 30 phút với ba nhân vật khác (ông hoạ sĩ, cô kỹ sư, bác lái xe). Cuộc sống tình cảm và suy nghĩ của anh chỉ được thể hiện qua lời kể của bác lái xe, qua sự quan sát của ông hoạ sỹ, cô kỹ sư và qua lời bộc bạch tâm sự của chính anh. Truyện ngắn này có cốt truyện hết sức đơn giản, không có xung đột, cũng không có thắt nút hay cao trào như ở phần lớn các truyện ngắn khác.
+ Thứ hai, nhân vật anh thanh niên được người hoạ sĩ già quan sát và muốn thế hiện bằng một bức chân dung.
III. Phân tích nhân vật anh thanh niên trong truyện
Hãy phân tích để làm rõ vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa cao quý của những công việc thầm lặng.
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài :
 -  Trong văn học Việt Nam có những cây bút văn xuôi chỉ chuyên về truyện ngắn và ký - Nguyễn Thành Long là một trong số đó. Ông được khẳng định như một cây bút truyện ngắn và ký đáng chú ý trong những năm 60 - 70 với cả gần chục sách đã in.
"Lặng lẽ Sa Pa" là kết quả của chuyến "thâm nhập thực tế" ở Lào Cai của tác giả trong mùa hè năm ấy.
 -  Trong chuyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa”, tác giả Nguyễn Thành Long đã gửi gắm chủ đề của câu chuyện “trong cái lặng im đất nước”.
Điều ấy sẽ được thấy rõ qua nhân vật: anh thanh niên; ông
II. Thân bài:
 -  Đọc truyện, người đọc thấy vẻ đẹp của Sa Pa hiện lên thật độc đáo, đầy chất thơ, nhưng truyện còn giới thiệu với chúng ta về vẻ đẹp của con người Sa Pa. Đó là những con người miệt mài làm việc, nghiên cứu khoa học, trong lặng lẽ mà rất khẩn trương vì lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của con người.
1. Đó là anh thanh niên:
a. Vị trí của nhân vật và cách miêu tả của tác giả:
 -  Truyện đưa ra 4 nhân vật: bác lái xe, ông hoạ sĩ, cô kỹ sư mới ra trrường và anh thanh niên ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét.
 -  Anh thanh niên là nhân vật chính của truyện, nhân vật này không xuất hiện ngay từ đầu truyện mà chỉ hiện ra trong cuộc gặp gỡ giữa các nhân vật kia với anh, khi xe của họ dừng lại nghỉ. Nhân vật ấy chỉ hiện ra trong chốc lát, đủ để các nhân vật khác kịp ghi nhận một ấn tượng, một ký hoạ chân dung về anh rồi dường như anh lại khuất lấp trong mây mù bạt ngàn và cái lặng lẽ muôn thủa của núi cao Sa Pa. Nhân vật anh thanh niên hiện ra để mọi người cảm nhận được rằng: “Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ Kỹ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước”.
 -  Nhân vật anh thanh niên được hiện ra sự nhìn nhận, suy nghĩ, đánh giá của các nhân vật khác: bác lái xe, ông hoạ sỹ, cô gái. Qua cách nhìn và cảm xúc của mỗi người, hình ảnh anh thanh niên thêm rõ nét và đáng mến hơn.
b. Những nét đẹp của nhân vật:
* Hoàn cảnh sống và làm việc:
 -  Nhân vật chính trong truyện làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu. Sống một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, quanh năm suốt tháng giữa cổ cây và mây núi Sa Pa. Công việc của anh là:“đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dựa vào công việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Công việc ấy đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao (nửa đêm đúng giờ ốp thì dù mưa tuyết, giá lạnh thế nào cũng phải trở dậy ra ngoài trời làm công việc đã quy định).
 -  Nhưng cái gian khổ nhất là phải vượt qua được sự cô đơn, vắng vẻ, quanh năm suốt tháng một mình trên đỉnh núi cao không một bóng người - một hoàn cảnh thật đặc biệt.
* Những nét đẹp trong việc làm, cách sống, suy nghĩ, tình cảm và quan hệ với mọi người.
 -  Vượt lên hoàn cảnh sống, những vất vả của công việc, anh có những suy nghĩ rất đẹp:
+ Đối với công việc, anh yêu nó tới mức trong khi mọi người còn ái ngại cho cuộc sống ở độ cao 2600m của anh thì anh lại ước ao được làm việc ở độ cao trên 3000m. Vì anh cho như vậy mới gọi là lý tưởng.
+ Anh có những suy nghĩ thật đúng và sâu sắc về công việc đối với cuộc sống con người: “khi ta làm việc, ta với công việc là một, sao lại gọi là một mình được” và anh hiểu rằng công việc của anh còn gắn với công việc của bao anh em đồng chí dưới kia. “Công việc của cháu gian khổ thật đấy chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”.
+ Quan niệm của anh về hạnh phúc thật là đơn giản nhưng cũng thật đẹp. Khi biết một lần do phát hiện kịp thời một đám mây khô mà anh đã góp phần vào chiến thắng của không quân ta bắn rơi được máy bay Mỹ trên cầu Hàm Rồng, anh thấy mình “thật hạnh phúc”.
+ Cuộc sống của anh không cô đơn buồn tủi như người khác nghĩ. Bởi anh còn biết tạo niềm vui trong công việc, đó là đọc sách. Vì sách chính là người bạn để anh “trò chuyện”. Nhờ có sách mà anh chống trọi được với sự vắng lặng quanh năm. Nhờ có sách mà anh tiếp tục học hành, mở mang kiến thức.
 -  Từ những suy nghĩ đẹp về công việc, hạnh phúc và cuộc sống, ở anh còn có những hành động thật đẹp đẽ biết bao:
+ Mặc dù chỉ có một mình, không người giám sát, anh đã vượt qua những gian khổ của hoàn cảnh, làm việc một cách nghiêm túc, tự giác với tinh thần trách nhiệm cao. Nửa đêm, đúng giờ “ốp”, dù mưa tuyết giá lạnh thế nào anh cũng trở dậy ra ngoài trời làm việc. Ngày nào cũng vậy, anh làm việc một cách đều đặn, chính xác đủ 4 lần trong một ngày vào lúc 4 giờ, 11 giờ, 7 giờ tối và 1 giờ sáng.
+ Nhưng cái gian khổ nhất là vượt qua được sự cô đơn, vắng vẻ quanh năm suốt tháng một mình trên đỉnh núi cao, không một bóng người. Mới đầu, anh “thèm người” tới mức phải lấy cây chắn ngang đường ô tô để được nghe tiếng người! Về sau anh nghĩ: “Nếu đó chỉ là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì thật xoàng” và anh đã vượt qua để sống, làm việc một mình với cỏ cây thiên nhiên Sa Pa, để trở thành: “Con người cô độc nhất thế gian” mà bất cứ ai đã một lần gặp anh đều mang theo ấn tượng đẹp đẽ.
 -  Anh còn có một nếp sống đẹp: Anh tự sắp xếp cuộc sống một mình ở trạm một cách ngăn nắp: có một vườn rau xanh tốt, một đàn gà đẻ trứng, một vườn hoa rực rỡ.
 -  ở người thanh niên ấy còn có một phong cách sống rất đẹp:
+ Đó là sự cởi mở, chân thành với khách, rất quý trong tình cảm của mọi người, khao khát được gặp gỡ, được trò chuyện. Dẫu phải sống một mình nhưng anh vẫn luôn quan tâm tới người khác: anh gửi biếu gói tam thất cho vợ bác lái xe vừa bị ốm, tặng hoa cho cô gái, mời bác lái xe và ông hoạ sĩ uống trà, tặng cho người đi xa một giỏ trứng gà tươi.
+ Anh còn là người khiêm tốn, thành thực cảm thấy công việc và những đóng góp của mình chỉ là nhỏ bé. Khi ông hoạ sỹ muốn vẽ chân dung anh, anh nhiệt tình giới thiệu với ông những người khác mà anh cho rằng đáng cảm phục hơn anh. (ông kỹ sư vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu lập bản đồ sét).
 - > Tóm lại, chỉ bằng một số chi tiết và chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc của truyện, tác giả đã phác hoạ được chân dung nhân vật chính với những nét đẹp về tinh thần, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa của công việc.
2. Ta còn bắt gặp ở đất Sa Pa những con người làm việc âm thầm, lặng lẽ cho đất nước qua lời kể của anh thanh niên.
a. Đó là ông kỹ sư vườn rau Sa Pa: Ngày này qua ngày khác ngồi trong vườn, chăm chú rình xem cách lấy mật ong để rồi tự tay thụ phấn cho hàng vạn cây su hào để hạt giống làm ra tốt hơn, ngọt hơn trước.
b. Đó là anh cán bộ nghiên cứu sét: đã “11 năm không một ngày xa cơ quan” luôn “trong tư thế sẵn sàng, suốt ngày chờ sét” để lập bản đồ tìm ra tài nguyên trong lòng đất.
=> Những con người ấy làm cho anh thanh niên thấy “cuộc đời đẹp quá” đâu còn buồn tẻ “cô độc nhất thế gian”.
=> Đúng như tác giả đã viết: “Trong cái lặng im cho đất nước”.
3. Nhân vật anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau, anh cán bộ nghiên cứu sét giúp ta hiểu thêm ý nghĩa của những công việc thầm lặng:
 -  Họ tạo thành cái thế giới những con người như anh thanh niên ở trạm khí tượng, những con người miệt mài lao động khoa học lặng lẽ mà khẩn trương vì lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của mọi người.
 -  Cuộc sống lao động giản dị nhưng cao đẹp làm nên vẻ đẹp đích thực của mỗi con người, có sức thuyết phục lan toả với những người xung quanh.
III. Kết bài:
Qua phần phân tích trên ta thấy “Lặng lẽ Sa Pa” đang ngân vang trong lòng ta những rung động nhẹ nhàng mà thú vị về những con người âm thầm lặng lẽ nhưng thật đáng yêu. Họ đã dệt lên bài ca về tình yêu tổ chức, tình yêu đất nước.
IV. Phân tích các nhân vật phụ:
1. Nhân vật ông hoạ sĩ:
 -  Tuy không dùng cách kể ở ngôi thứ nhất, nhưng hầu như người kể chuyện đã nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của nhân vật ông hoạ sỹ để quan sát và miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của truyện - người thanh niên.
 -  Ông là 1 nghệ sỹ chân chính, 1 trí thức lịch duyệt, 1 nhân cách đẹp có đời sống nội tâm phong phú.
 -  Ngòi bút như là 1 quả tim nữa của ông vì suốt đời ông chỉ đi và vẽ, ông khao khát nghệ thuật, vì thế mà ông thêm yêu cuộc sống và con người. Lúc nào ông cũng trăn trở phải vẽ được cái gì mà suốt đời mình thích.
 -  Người hoạ sỹ ngay từ phút đầu gặp gỡ, bằng cả sự từng trải nghệ thuật và khao khát tìm cái đẹp của cuộc sống đã nhận ra vẻ đẹp từ tâm hồn anh thanh niên và thực sự thấy bối rối, xúc động. “Vì hoạ sỹ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, ôi, một nét thôi cũng đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác”.
=> Ông phát hiện ra vẻ đẹp mới ở Sa Pa, đẹp hơn cả thiên nhiên Sa Pa, đó là vẻ đẹp từ tâm hồn con người ở Sa Pa. Và ông cảm nhận được anh thanh niên chính là đối tượng khơi nguồn cho cảm xúc.
 -  Ông hoạ sỹ muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên bằng nét bút ký hoạ, và “người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ”.
 -  Từ ông, ta thấy được mục đích của người làm nghệ thuật là tìm ra cái đẹp tiềm ẩn trong cuộc sống, trong con người. Ông đã bộc lộ cái niềm say mê lao động, sáng tạo, từng trải, có thể cảm nhận được đối tượng nghệ thuật của con người lao động nghệ thuật chân chính.
 -  Những suy nghĩ của ông đã làm nổi bật anh thanh niên, từ đó làm cho anh sáng rõ hơn, đẹp hơn, chứa đựng chiều sâu tư tưởng và làm rõ chủ đề truyện.
=> Ta càng thêm cảm phục và kính trọng ông.
2. Các nhân vật khác:
* Nhân vật cô kỹ sư:
 -  Góp phần làm câu chuyện thêm hấp dẫn, và làm nổi bật tính cách anh thanh niên. Cô đã điểm 1 nét vẽ nhẹ nhàng, duyên dáng vào câu chuyện.
 -  Cô là cô kỹ sư trẻ mới ra trường, hăng hái xung phong lên Lào Cai công tác. Bước qua cuộc đời học trò chật hẹp, bước vào cuộc sống bát ngát mới tinh, cái gì cũng làm cô háo hức.
 -  Cô khao khát đất rộng trời cao, cô có thể đi bất kỳ đâu, làm bất kỳ việc gì.
 -  Cô ôm bó hoa được tặng trong ngợc, lắng nghe câu chuyện của anh thanh niên rồi trầm ngâm lặng lẽ, cô xúc động khi nhìn thấy trang sách anh thanh niên đọc để trên mặt bàn.
Mới bước vào đời, cô gặp anh thanh niên tựa như 1 tấm gương, tự soi để tự hiểu mình, nghĩ về mối tình nhạt nhẽo mà cô đã chối bỏ và con đường cô đang đi tới.
 -  Nghe anh thanh niên cô mới bàng hoàng nhận ra con đường đi cho mình, càng vững tin vào những gì mình sẽ làm.
=> Làm bừng dậy những tình cảm lớn lao, cao đẹp khi phát hiện ánh sáng đẹp đẽ toả ra từ cuộc sống và tâm hồn con người khác.
 -  Cô biết ơn anh thanh niên không chỉ vì bó hoa anh đã tặng cho cô 1 cách vô tư, không vụ lợi mà còn bởi 1 bó hoa nào khác nữa, đó là sự hào hứng tự nhiên mà anh vô tình đã tặng cho cô.
 -  Và hẳn rằng có 1 tình cảm lưu luyến giữa anh thanh niên và cô khi họ chia tay nhau.
=> Côi kỹ sư đẹp như những bông hoa cô đang cầm trên tay.
* Bác lái xe:
 -  Tốt bụng, vui chuyện như 1 nhân vật dẫn chuyện nhưng làm ta khó quên. Bác rất vui tính, cởi mở, nhiệt tình với khách.
 -  Nhân vật này đã dẫn dắt truyện, kích thích sự tò mò cho ông hoạ sỹ và cô kỹ sư, sơ lược về anh thanh niên trước khi 2 người gặp anh.
Dẫn chứng: “ Tôi sắp giới thiệu với bác 1 người cô độc nhất thế gian. Thế nào bác cũng thích vẽ hắn”.
=> Ta thấy hình ảnh anh thanh niên rõ ràng, đẹp đẽ hơn, chủ đề truyện cũng được mở rộng hơn, gợi nhiều ý nghĩa hơn.
Đây chính là thủ pháp rất thành công trong việc xây dựng nhân vật chính.
Copyright © 2013 Luyện thi Văn cùng cô Trần Phương